http://0915333211.blogspot.com

Loading

TIÊU ĐIỂM

Thứ Năm, 9 tháng 12, 2010

GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

Giáo dục giới tính là một thuật ngữ rộng miêu tả việc giáo dục về giải phẫu sinh dục, sinh sản, quan hệ tình dục, sức khoẻ sinh sản, các quan hệ tình cảm, quyền sinh sản và các trách nhiệm, tránh thai, và các khía cạnh khác của thái độ tình dục loài người. Những cách giáo dục giới tính thông thường là thông qua cha mẹ, người chăm sóc, các chương trình trường học và các chiến dịch sức khoẻ cộng đồng.

TỔNG QUAN
Giáo dục giới tính có thể được miêu tả là "giáo dục tình dục," có nghĩa nó gồm việc giáo dục về mọi khía cạnh của hoạt động tình dục, gồm cả thông tin về kế hoạch hoá gia đình, sinh sản (khả năng sinh sản, tránh thai và sự phát triển của phôi thai và thai nhi, tới sinh đẻ), cộng thêm thông tin về mọi khía cạnh đời sống tình dục của một cá nhân gồm: hình ảnh thân thể, khuynh hướng tình dục, cảm xúc tình dục, các giá trị, đưa ra quyết định, thông tin, hẹn hò, các quan hệ, các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs) và làm sao để tránh chúng, và các biện pháp kiểm soát sinh sản.
Giáo dục giới tính có thể được dạy một cách không chính thức, như khi một ai đó nhận được thông tin từ một cuộc trò chuyện với cha mẹ, bạn bè, người lãnh đạo tôn giáo, hay qua truyền thông. Nó cũng có thể được truyền dạy qua các tác gia với các tác phẩm về giới tính, chuyên mục báo chí, hay qua các trang web về giáo dục giới tính. Giáo dục giới tính chính thức diễn ra khi các trường học hay người cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ thực hiện điều này.
Thỉnh thoảng giáo dục giới tính chính thức được dạy như một trương chình đầy đủ như một phần của chương trình học tại các trường trung học hay trung học cơ sở. Ở những trường hợp khác nó chỉ là một bài học bên trong một lớp học rộng hơn về sinh học, sức khoẻ, kinh tế gia đình, hay giáo dục thể chất. Một số trường không dạy giáo dục giới tính, bởi nó vẫn là một vấn đề gây tranh cãi ở một số quốc gia, đặc biệt là Hoa Kỳ (đặc biệt về vấn đề độ tuổi trẻ em cần nhận được sự giáo dục như vậy, số lượng chi tiết liên quan, và các chủ đề về khuynh hướng tình dục loài người, ví dụ như cách thực hiện tình dục an toàn, thủ dâm, tình dục trước hôn nhân, và đạo đức tình dục).
Năm 1936, Wilhelm Reich bình luận rằng việc giáo dục giới tính ở thời kỳ ông là một trò lừa bịp, tập trung vào sinh học trong khi che đậy sự kích thích khêu gợi, là cái mà một cá nhân tới tuổi dậy thì quan tâm nhất. Reich thêm rằng việc này khiến ông cảm thấy mơ hồ về cái mà ông tin là một nguyên tắc cơ bản tâm lý học: rằng mọi lo lắng và khó khăn bắt nguồn từ các xung lực tình dục không được thoả mãn.[1]
Khi giáo dục giới tính còn đang được tiếp tục tranh cãi, các điểm gây mâu thuẫn nhiều nhất là liệu việc đề cập tới cảm xúc giới tính trẻ em là tốt hay không; việc sử dụng các biện pháp kiểm soát sinh sản như bao cao su và thuốc tránh thai hormone; và tác động của việc sử dụng chúng trên việc mang thai ngoài hôn nhân, mang thai vị thành niên, và việc truyền nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Sự ủng hộ ngày càng tăng cho giáo dục giới tính kiêng khem hoàn toàn của một số nhóm bảo thủ từng là một trong những lý lẽ chính của cuộc tranh cãi này. Các quốc gia có thái độ bảo thủ với giáo dục giới tính (gồm cả Hoa Kỳ và Anh Quốc) có tỷ lệ truyền nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình dục và mang thai vị thành niên cao hơn.[2]
Sự xuất hiện của AIDS đã mang lại một ý nghĩa khẩn cấp mới cho chủ đề giáo dục giới tính. Tại nhiều quốc gia châu Phi, nơi AIDS đã trở thành bệnh dịch (xem HIV/AIDS tại châu Phi), giáo dục giới tính được hầu hết các nhà khoa học coi là một chiến lược sống còn về sức khoẻ cộng đồng. Một số tổ chức quốc tế như Planned Parenthood coi các chương trình giáo dục giới tính ở diện rộng có lợi ích toàn cầu, như kiểm soát nguy cơ quá tải dân số và tăng cường nữ quyền (xem thêm quyền sinh sản).
Theo SIECUS, Hội đồng Thông tin và Giáo dục Giới tính Hoa Kỳ, 93% người lớn được họ khảo sát ủng hộ giáo dục giới tính ở trường trung học phổ thông và 84% ủng hộ nó tại các trường trung học cơ sở.[3] Trên thực tế, 88% cha mẹ học sinh các trường trung học phổ thông và 80% cha mẹ học sinh các trường trung học phổ thông tin rằng giáo dục giới tính trong trường học khiến họ cảm thấy dễ dàng hơn khi trò chuyện với con mình về tình dục.[4] Also, 92% of adolescents report that they want both to talk to their parents about sex and to have comprehensive in-school sex education.

Đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và hoán tính ở thanh niên
Thanh niên đồng tính, song tính, hoán tính, (LGBT), và những người có thói quen tình dục khác, thường bỏ qua các lớp giáo dục giới tính, gồm cả việc thường xuyên vắng mặt trong các cuộc thảo luận về thực hiện tình dục an toàn về tình dục bằng tay, bằng miệng, và tình dục hậu môn, dù có những mức độ nguy cơ khác nhau về các bệnh lây truyền qua đường tình dục của các hành động đó.
Một số người không đồng ý với giáo dục giới tính toàn diện có đề cập hay thảo luận về những hành động đó, họ tin rằng việc đưa thêm các thông tin đó phải bị coi là sự khuyến khích thái độ tình dục đồng tính. Những người ủng hộ nội dung giáo dục trên cho rằng việc loại bỏ các thảo luận về vấn đề đó hay các vấn đề đồng tính luyến ái, song tính, hay hoán tính, những cảm giác cô độc, cô đơn, tội lỗi và xấu hổ cũng như tình trạng suy sụp trở nên tồi tệ hơn với những thanh niên cho rằng mình có thiên hướng tình dục thiểu số, hay cảm thấy không chắc chắn về giới tính của mình. Những người ủng hộ việc đưa các chủ đề LGBT vào trong giáo dục giới tính toàn diện cho rằng thông tin này vẫn hữu ích và có liên quan và làm giảm khả năng tự tử, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, và cách ứng xử không tốt hay nổi loạn của các thanh niên đó. Nếu không có những cuộc thảo luận đó, các thanh niên đó trên thực tế buộc phải tiếp tục giấu kín và không có được hướng dẫn để đương đầu với những hấp dẫn đồng giới hay các bạn cùng cộng đồng LGBT của họ.
Những người ủng hộ các chương trình giáo dục giới tính toàn diện cho rằng các chương trình chỉ dạy về kiêng khem (khuyến khích thanh niên kiêng tình dục cho tới hôn nhân) bỏ qua và loại bỏ các thanh niên đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và hoán tính, những người thường không có thể lấy một bạn tình vì các giới hạn pháp luật. Những người ủng hộ giáo dục kiêng khem thường có quan điểm bảo thủ hơn về đồng tính và song tính và phải đối việc chúng được dạy như các khuynh hướng bình thường và có thể chấp nhận, hay được đặt trên cơ sở bình đẳng với hoạt động/quan hệ tình dục khác giới, và vì thế họ thường không coi đây là một vấn đề. Những người ủng hộ các chương trình giáo dục toàn diện cảm thấy rằng nó là một vấn đề lớn bởi nó có thể khiến các thanh niên LGBT thậm chí cảm thấy bị lôi kéo hơn hay hổ thẹn với thiên hướng tình dục của mình.

Nghiên cứu khoa học về giáo dục giới tính

Cuộc tranh cãi về mang thai vị thành niên và các bệnh lây truyền qua đường tình dục đã khuyến khích một số cuộc nghiên cứu về hiệu quả của những cách tiếp cận khác nhau với giáo dục giới tính. Trong một cuộc phân tích rộng, DiCenso và những người khác. đã so sánh các chương trình giáo dục giới tính tổng quát với các chương trình chỉ dạy về kiêng khem.[50] Bài tổng quan về nhiều cuộc nghiên cứu của họ cho thấy các chương trình chỉ dạy kiêng khem không làm giảm khả năng mang thai của phụ nữ tham gia chương trình, mà còn làm nó tăng thêm. Bốn chương trình kiêng khem và một chương trình trường học liên quan tới sự gia tăng 54% các bạn tình của nam và 46% ở phụ nữ (khoảng tin cậy 95% 0.95 tới 2.25 và 0.98 tới 2.26 respectively). Các nhà nghiên cứu kết luận:
"Có một số bằng chứng rằng các chương trình ngăn chặn có thể gần bắt đầu sớm hơn nhiều so với hiện tại. Trong một cuộc xem xét tổng quan có hệ thống gần đây về tám cuộc thử nghiệm chăm sóc ban ngày cho trẻ em thiệt thời dưới 5 tuổi, quá trình theo dõi lâu dài cho thấy tỷ lệ mang thai thấp hơn trong số thanh niên. Chúng ta cần điều tra các yếu tố quyết định xã hội về mang thai ngoài ý muốn ở thanh niên thông qua những cuộc nghiên cứu rộng theo chiều dọc bắt đầu từ đầu đời và sử dụng các kết quả phân tích đa dạng để hướng dẫn việc thiết kế biện pháp ngăn chặn can thiệp. Chúng ta phải xem xét thận trọng các quốc gia có tỷ lệ mang thai thanh niên thấp. Ví dụ, Hà Lan là một trong những nước có tỷ lệ thấp nhất thế giới (8.1 trên 1000 phụ nữ trẻ trong độ tuổi 15 tới 19), và Ketting & Visser đã xuất bản một bản phân tích về các yếu tố liên quan.[51] Trái lại, các tỷ lệ là:
93.0 trên 1000 tại Hoa Kỳ (85.8/1000 năm 1996)
62.6 trên 1000 tại Anh Quốc và Wales
42.7 trên 1000 tại Canada
15.1 trên 1000 tại Bỉ (1996)[52]
Chúng ta phải xem xét các chương trình có hiệu quả được thiết kế để ngăn chặn các thái độ có nguy cơ cao ở thanh niên. Ví dụ, Botvin và những người khác thấy rằng các chương trình trong trường học để ngăn chặn lạm dụng chất gây nghiện ngay từ các trường trung học cơ sở (độ tuổi 12–14) làm giảm bớt đáng kể sự sử dụng thuốc lá, rượu, và cannabis nếu trẻ em dạy một sự tổng hợp các kỹ năng kháng cự xã hội và kỹ năng sống nói chung, nếu các chương trình này được thực hiện chính xác và kéo dài ít nhất hai năm.
Ít chương trình can thiệp sức khoẻ tình dục được thiết kế với mục tiêu dành cho thanh niên. Thanh niên đã cho thấy giáo dục giới tính cần phải trở nên nhạy cảm hơn và ít nhấn mạnh vào giải phẫu và những sự e ngại; nó cần tập trung trên các kỹ năng đàm phán trong quan hệ tình dục và trao đổi; và các chi tiết về các bệnh viện chăm sóc sức khoẻ sinh sản phải được quảng cáo tại các nơi thanh niên thường lui tới (ví dụ, toilet trường học, trung tâm mua sắm)."[50]
Tương tự, một cuộc nghiên cứu của Mỹ, "Emerging Answers", thuộc Chiến dịch Quốc gia Ngăn ngừa Mang thai Vị thành niên đã nghiên cứu 250 chương trình giáo dục giới tính.[53] Kết luận của cuộc nghiên cứu này là "đại đa số bằng chứng cho thấy giáo dục giới tính có đề cập tới tránh thai không làm gia tăng hoạt động tình dục".

NGUỒN:vi.wikipedia

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét